- Đăng ngày 29 Tháng 11 2014
- Lượt xem: 1885
Tôi rùng mình vì cơn lạnh theo gió bất chợt đổ về thì ít nhưng lại run người khi nghe tin Bill vừa mất tối hôm kia. Đêm Bill chết là đêm thứ Sáu, Halloween. Cái đêm người ta mặc quần áo hóa trang để vui chơi, nhảy múa với nhau. Đêm mệnh danh của ma quỷ vì ngày hôm sau, 1 tháng 11, là lễ Các Thánh. Bạn bè đồng nghiệp họp nhau theo kiểu mỗi gia đình mang một món đến ăn chung. Rồi mở nhạc nhảy nhót trên mảnh sàn gỗ của căn nhà một đồng nghiệp khác. Ăn uống, trò chuyện là chính; khiêu vũ chỉ là để câu chuyện đẩy đưa. Bill đang nhảy với vợ một bản slow và chợt ngã đùng ra sau bất tỉnh. Ban đầu ai cũng tưởng là trò đùa. Đến khi Joy, vợ Bill, cúi xuống lay chồng thấy không động đậy thì biết là chuyện chẳng lành. Mọi người xúm lại quanh Bill nhưng chủ nhà đuổi hết lên phòng khách, chỉ còn lại vài người am tường thuật cấp cứu ở lại. Có người lấy sức ấn ấn bàn tay vào lồng ngực Bill để kích thích tim. Ai đó đã gọi điện thoại cấp cứu và chỉ cần 5 phút, tiếng còi hụ đã vọng lại từ xa. Y tá cấp cứu với thùng y tế chạy vội vào nhà. Hai cục sắt truyền điện liên tục đặt trên lồng ngực Bill. Cường độ của dòng điện đủ mạnh làm Bill giật cong người. Nhưng Bill vẫn nằm bất động. Từ lúc ngã xuống đến lúc hai nhân viên cấp cứu lắc đầu thở dài đứng dậy thời gian vỏn vẹn chỉ chừng 15 phút.
Tôi không có mặt tại buổi tiệc nên không biết Bill bất đắc kỳ tử thế nào. Tôi biết được diễn tiến kể trên vì ngày thứ Hai, một đồng nghiệp khác, người chủ nhà, kể lại cho tôi rành mạch từng chi tiết về cái chết của Bill. Đúng ra tôi đã biết Bill chết từ hôm Chủ nhật. Vào xế trưa hôm trước, tôi được tin nhắn của ông xếp bảo gọi lại cho ông. Đến khi gọi lại, ông báo tin Bill đã chết, chết tối thứ Sáu, lúc đang khiêu vũ với vợ. Tôi ngỡ ngàng hỏi lại, Bill nào? Ông nói thì Bill Ackley, trưởng dự án tôi đang làm chung. Tôi vẫn chưa tin ở tai mình, chỉ vì chiều thứ Sáu, trước khi về, tôi và Bill tình cờ đứng trước hãng nói chuyện bâng quơ về thời tiết, về buổi tiệc Halloween. Bill phải về sớm để chuẩn bị dẫn vợ đến dự tiệc. Không ngờ đó là lần cuối tôi thấy Bill.
Phải nói ngay Bill là người tôi không ưa nếu không nói là đáng ghét theo cái nhìn của tôi. Thật sự tôi chẳng ghét bỏ gì hắn nhưng trong lúc làm việc Bill và tôi đã đụng độ đôi lần, và lần nào cũng để lại cho tôi một vài cảm nghĩ xấu về lối cư xử của hắn. Tôi và Bill đã biết nhau từ cuối thập niên 80, khi tôi chịu trách nhiệm một bộ phận sản xuất. Hắn năng động, xốc vác, nói như máy, và không từ nan một phương tiện nào để đạt được mục đích. Và dĩ nhiên, những kẻ dùng bất cứ phương tiện nào để đạt mục đích sẽ đụng chạm đến nhiều người. Và hắn đụng đến tôi.
Chuyện xảy ra khi Bill xuống khu vực của tôi to tiếng đòi nhân viên của tôi phải bỏ mọi công việc để làm một việc cho hắn. Công việc hàng ngày tùy theo mức độ quan trọng tôi sắp xếp thứ tự ưu tiên. Việc cấp bách dĩ nhiên làm trước, việc của Bill – cũng quan trọng đấy – nhưng sẽ làm sau. Và hắn lồng lộn lên như con thú dữ. Ngay khi xâm phạm vào "lãnh thổ" của tôi, hắn đã vi phạm luật "bất thành văn" của hãng. To tiếng với nhân viên dưới quyền đã sai, và người này không làm dưới quyền của hắn lại càng sai hơn. Tôi ôn tồn giải thích cho hắn, nếu anh muốn gì thì nên nói chuyện với tôi, còn những người này, họ chỉ là nhân viên thừa hành, và họ chỉ làm theo yêu cầu của tôi; họ không cần biết anh là ai vì lẽ tự nhiên, họ chỉ biết tôi. Hơn nữa, anh không có quyền to tiếng với họ. Nhưng hắn vẫn khăng khăng lớn tiếng không chịu thua, cái kiểu "cả vú lấp miệng em". Cuối cùng tôi phải to tiếng lại với hắn, mời hắn ra khỏi khu vực của tôi. Nội vụ chuyển lên trên. Tôi trình bày lại sự việc, dĩ nhiên phòng Nhân viên đứng về phía tôi rồi giảng hòa. Người Mỹ quan niệm luôn nhìn về phía trước, quá khứ đã qua, và hiện tại cũng vừa xong. Vì thế, mặc dù chuyện đụng độ khá lớn nhưng xem như chìm xuồng. Một điều lạ, Bill chẳng suy suyển gì qua sự việc kể trên. Hắn vẫn bình chân như vại. Hắn vẫn năng động một cách đáng ghét, vẫn thọc đũa vào bất cứ mâm nào hắn thích. Có lẽ vì hắn khéo nói, cái kiểu "mồm miệng đỡ tay chân" nên rất vừa lòng cấp trên. Hơn nữa, hắn Mỹ chính gốc, tôi dân tỵ nạn mới qua Mỹ chưa đến chục năm. Từ đó, hắn kiềng mặt tôi, tránh gặp mặt trừ những lần ngồi trong phòng họp cần phải bàn chuyện. Tôi cũng thế, hễ thấy hắn từ đàng xa là tôi lảng sang hướng khác. Diên tích hãng khá rộng, nên tránh mặt hắn kể ra cũng đến nỗi quá khó khăn.
Làm được một thời gian thì tôi sang đầu quân cho hãng hiện tại. Được thêm vài năm thì hai hãng sáp nhập và thế là tôi gặp lại Bill. Ôi! cái nợ oan gia này đến lúc nào tôi mới trả xong? Thuở mới nhập chung, tôi đã có ý định bỏ hãng lần nữa chỉ vì không muốn thấy mặt hắn. Nhưng thời buổi kinh tế khó khăn, vả lại ngành kỹ thuật này không còn bao nhiêu hãng vì cá lớn nuốt cá bé, hoặc sáp nhập để sống còn. Ngày tôi mới ra trường, ngành tôi đang làm lên đến cả trăm hãng lớn nhỏ. Hễ không thích thì bỏ hãng này nhảy sang hãng khác, chẳng có gì luyến tiếc. Thế mà vào đầu năm 2014, ngành kỹ thuật này vỏn vẹn chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Bao nhiêu năm nay tôi tích lũy kinh nghiệm được từ ngành này nên không thể đổi sang ngành khác, và với non chục hãng còn lại trên thị trường, cơ hội để kiếm được việc làm bỗng trở nên khó khăn hơn bao giờ. Vả lại, tuổi đã lớn nên đổi hãng lại càng khó hơn, nếu không nói là không thể. Vì thế, tôi cắn răng tự nhủ, cứ ở lại làm nhưng cố tránh mặt hắn... mỗi ngày.
Ngày Chủ nhật khi nhận được tin Bill ngã chết, lòng tôi không vui cũng chẳng buồn. Chỉ bất ngờ. Đúng ra, tôi chợt thấy mình thở phào như vừa trút được một gánh nặng. Thoáng trong ý nghĩ, tôi tự nhủ từ nay không còn thấy cái gai đâm vào mắt mỗi ngày nữa, nhất là tôi không phải đối diện với hắn trong dự án đang tiến hành, và lòng tôi chợt dấy lên một chút vui. Nhưng tôi lại tự trách tôi ngay tức khắc vì không thể vui một khi nói đến cái chết, cho dù cái chết đó xảy ra cho người mình không ưa thích. Vì nghĩa tử là nghĩa tận. Sự chết gắn liền với nỗi đau và nước mắt. Nếu tôi không nhỏ một giọt nước mắt về cái chết bất ngờ của Bill, thì lòng tôi cũng không thể rộn ràng cho dù cái chết đã phóng thích tôi thoát khỏi cảnh bực mình trong 8 tiếng mỗi ngày nơi công sở.
Xác Bill giữ lại để giảo nghiệm gần cả tuần. Cũng là thủ tục vì bất đắc kỳ tử. Ngày thứ Tư tuần tiếp theo, gia đình tổ chức một thánh lễ tiễn đưa. Hỏi ra mới biết xác Bill đã hỏa thiêu ngay sau khi văn phòng giảo nghiệm tử thi kết thúc cuộc điều tra. Giấy chứng nhận Bill chết vì trụy tim. Một người trông khỏe mạnh, xông xáo đến thế mà bị trụy tim kể cũng lạ. Tôi biết thêm là Joy, vợ Bill, xin một lễ tiễn đưa cho đúng nghĩa vợ chồng. Bill chắc chắn theo đạo Tin Lành, nhưng Joy là người Phi nên xin một thánh lễ là điều dễ hiểu, vì đa số dân Phi theo đạo Công giáo. Vỏn vẹn tham dự thánh lễ chừng 20 người, trong đó có tôi và một đồng nghiệp, còn lại là thân nhân của Joy. Tôi tự giới thiệu với Joy – người đàn bà da ngăm ngăm, tuổi vừa chớm 40, dáng vừa tầm – là đồng nghiệp của Bill, và Joy ôm lấy tôi nói cám ơn. Tôi nói thêm hôm thứ Sáu tôi đứng nói chuyện với Bill trước khi về và không ngờ đó là lần cuối cùng. Joy yên lặng không nói thêm được một lời nào, nước mắt đoanh tròng. Tôi an ủi Joy bảo God's call. Joy cười mếu máo, gật gật đầu, tôi biết và tôi chấp nhận; tôi sẽ mang bình tro này về nhà chứ không đem ra nghĩa địa. Nhìn dưới chân bàn thờ, một bình tro màu xanh đặt trên chiếc ghế nhỏ, bên dưới ảnh bán thân của Bill. Cả thân thể cao lớn gần 6', thế mà bây giờ vỏn vẹn chỉ còn lại một nhúm tro, nằm chơ vơ giữa ngôi nhà thờ rộng hoác. Tôi suy nghĩ nhiều về thân phận con người trong thánh lễ tiễn đưa. Một đời người xông xáo, năng động trong công việc, cứ tưởng cuộc đời sẽ mãi như thế. Nhưng không, chỉ cần một lần ngã xuống đất, là mãi mãi thiên thu. Ôi, cuộc sống quả là vô thường.
Ngày hôm sau, thân nhân lại tổ chức thêm một lần đưa tiễn, gọi là celebration of life (kỷ niệm cuộc sống). Họ mượn phòng họp của một nhà thờ khác, và mời tất cả bạn bè, đồng nghiệp, và thân nhân đến. Trong lần tiễn đưa này, tất cả đều kể lại những kỷ niệm với Bill; vui cũng như buồn. Đây là một tục lệ rất hay của xứ Mỹ, và gần như không hợp với văn hóa Á-đông. Cái chết theo văn hóa phương Đông, chỉ có tiếng khóc, không thể cười, vì xem đó là vô lễ với người quá cố. Quan niệm phương Tây lại khác, họ thường có vài giờ để ôn lại kỷ niệm trước khi chôn cất. Tôi đã áp dụng giờ kỷ niệm này qua cái chết của người cô trong tháng 8 vừa qua. Bầu khí tuy không hợp với các cụ lớn tuổi nhưng giới trẻ rất thích. Họ đứng lên kể lại những kỷ niệm vui buồn. Những kỷ niệm vui, căn phòng rộn rã tiếng cười. Đến chuyện buồn, lẫn trong tiếng cười có tiếng nấc. Người quá cố nằm đó trong quan tài mở nắp, hầu như cũng mỉm cười vì con cháu nhớ đến những mẩu chuyện xa xưa, mà có lẽ kẻ qua đời chỉ còn nhớ lõm bõm. Cuối giờ, những đứa cháu ôm nhau cười với khuôn mặt ướt đẫm nước mắt.
Căn phòng đợi celebration of life cho Bill râm ran tiếng cười nói, chẳng thấy nước mắt đâu. Thật không ngờ phòng họp chật ních người. Tôi tính nhẩm có đến hơn trăm. Có những đồng nghiệp bỏ hãng đã hơn 10 năm, bây giờ gặp lại hỏi han về việc làm, gia đình. Ai nấy trông vui tươi như dự một đám cưới. Bình tro, một lần nữa nằm lạc lõng trên chiếc bàn con đặt ở cuối phòng, bên cạnh những tấm thiệp chia buồn, đợi khách ký tên. Mở đầu, một đồng nghiệp kể lại những ngày đầu, bỏ New York về Cali, bồ bịch kéo nhau đi cắm trại ở Santa Cruz. Trong 3 ngày trại, Bill làm hết mọi việc, từ nấu nướng đến bày ra những trò chơi. Rồi việc làm, mỗi người một ngả, nhưng vẫn liên lạc với nhau. Một người đàn bà khác, mếu máo kể rằng những ngày bệnh nằm liệt giường, Bill đích thân đến cắt cỏ sau vườn. Bill có gia đình, bà ly dị, thế mà thân tình đến nỗi Bill chăm sóc bà như một người trong gia đình. Một phụ nữ nữa, kể lại nửa đêm xe bị bể bánh giữa xa lộ, gọi cho Bill, và Bill mang kích xe chạy đến giúp, lo cho cô về đến nhà an toàn. Lần lượt mọi người kể hết lòng tốt của Bill, lo lắng cho bạn bè, giúp đỡ tận tình mỗi khi cần. Tôi ngồi bên dưới, chẳng có gì để chia sẻ, nếu không nói toàn là những ác cảm với Bill. Giọng kể tan lẫn trong tiếng cười, đâu đó có tiếng sụt sùi, tất cả đẩy tôi vào một trạng thái suy nghĩ mênh mang về cuộc đời của Bill.
Tôi nhận ra rằng, những ác cảm của tôi đối với Bill chỉ là một mặt trái của cuộc đời. Bill có quá nhiều điểm tốt mà tôi không thấy, vì chỉ biết nhau qua môi trường làm việc. Ở bên ngoài, sau 8 tiếng kiếm cơm, Bill hiện thân là một người bạn tốt, thật tốt đến độ tôi phải tự hỏi nếu bạn bè tôi cần tôi giúp trong một tình huống như thế, liệu tình bạn đủ thâm sâu giúp tôi vượt qua những khó chịu bình thường để tận tình giúp đỡ hay không? Tai tôi không còn nghe tiếng kể, vì tâm trí tôi tràn ngập những nghĩ suy về Bill. Và tôi cũng nhận ra rằng, từ bấy lâu nay, tôi thật có lỗi với Bill. Tôi xét người quá vội. Cuộc đời muôn mặt, tôi thường bảo thế. Vậy mà tôi xét người chỉ qua một mặt, còn hàng nghìn mặt khác tôi chẳng hề màng, hoặc chủ quan ngoảnh mặt đi.
Cuối giờ, mọi người ở lại dùng bữa ăn nhẹ. Thức ăn bày la liệt trên bàn, những món ăn khô, nhón tay cho vào miệng. Tôi chẳng tha thiết gì nữa. Tâm hồn tôi đặc quánh những ân hận. Tôi bước đến bàn con, lặng lẽ đặt tay lên bình tro của Bill, nói một mình, "I'm sorry, man, rest in peace", rồi quày quả bước ra khỏi phòng. Hồn tôi nhẹ tênh trên đường về. Tôi cứ thả hồn trôi lênh đênh như một người mất trí, và chẳng biết từ lúc nào, miệng tôi lẩm nhẩm đọc một kinh cầu nguyện cho Bill. Xin Chúa thương xót Bill, một người thật tốt lành.
Những ngày tiếp theo trong tháng 11, toàn những tin buồn. Ông cụ thân sinh của xếp tôi mất, thọ gần trăm tuổi. Bà mẹ vợ của ông Phó Tổng giám đốc cũng qua đời, chẳng biết thọ bao nhiêu. Người cháu của bạn tôi, sĩ quan từ mặt trận Aghan trở về, ra bờ biển câu cá bị sóng đập vào cuốn mất tích. Cuối ngày mới tìm thấy xác cách chỗ câu khoảng gần dặm. Mới 22 tuổi. Sao có quá nhiều cái chết xảy ra trong tháng này. Hồn tôi đen quánh về thân phận con người, về cõi đời tạm bợ trần gian.
Nhưng một đốm sáng lóe lên trong mảnh hồn đen tối vì khoảng giữa tháng tôi nhận được tin của một người bạn cũ. Cú phôn thật bất ngờ như cú phôn báo tin cái chết của Bill. Và lòng tôi tràn ngập niềm vui. Giọng nói tôi không nhận ra nhưng tên của người bạn thì tôi nhớ như in, Lê hùng Sơn.
Sơn đen. Sơn dáng người nhỏ, luôn đứng sau Phước khi xếp hàng vào lớp. Năm đó là năm đệ Lục. Sơn từ Komtum xuống, giỏi Pháp văn vì học ở Tiểu chủng viện Thừa sai. Mấy năm nay chúng tôi tìm được đến cỡ ba chục thằng bạn từ thuở học La San Bình Lợi Qui nhơn. Tên moi ra từ ký ức nhiều hơn con số ba chục tìm được và 2 đứa cuối cùng mà cả nhóm cố công tìm kiếm là Hoàng đức Huy và Lê hùng Sơn. Huy nhập nhóm cũng là tình cờ, một người bạn ở Sàigòn tìm ra tung tích rồi báo tin. Thằng bạn đang ở Thủ đức, sống an nhàn tuổi già. Dân Võ bị một thời.
Sơn lại là dân Không quân, phi công A37. Tôi không ngờ chiều cao của Sơn lại được ngành KQ tuyển chọn. Từ ngày bắt được liên lạc, hầu như mỗi ngày tôi đều nói chuyện với Sơn. Bạn tôi kể lại năm 72, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, ngành KQ hạ tiêu chuẩn chiều cao, 1m65 vẫn được chọn. Hơn nghìn sinh viên nhập ngũ, chừng 300 được chọn vào KQ, và chỉ vài chục được chọn cho phi cơ chiến đấu A37. Sơn là một trong vài chục sinh viên như thế.
Quãng đời của Sơn thuở trung học khá lênh đênh. Cha mất đúng vào dịp Mậu Thân, và Sơn phải lên trọ học nhà ông chú ở Ban mê thuột vì nhà nghèo, tiền tử tuất không đủ để người mẹ nuôi cả đàn con ăn học. Rồi Sơn trở lại La San Bình Lợi năm đệ Tứ, và dời hẳn vào Sàigòn học Quốc gia Nghĩa tử vì cha đã đền nợ nước. Sơn qua Mỹ thụ huấn khóa A37 được gần 3 năm rồi quay trở về nước chuẩn bị thú đi mây về gió thì biến cố 75 xảy ra. Tan hàng rã đám. Sơn lênh đênh sống sót mấy mươi năm và được người em bảo lãnh sang Mỹ năm 2006. Ở San Jose một vài năm rồi gia đình Sơn trôi mãi xuống tận miền Nam.
Ở miền Nam, Sơn tương đối gần xong nhiệm vụ với con cái. Một đứa làm việc ở xa, con gái út học gần nhà. Tôi biết thêm Sơn vừa bị tai biến và đang tập tành từng bước đi. Trụy tim và tai biến đều là biến chứng trầm kha. Bill bị trụy tim chết tức khắc. Sơn bị tai biến may mắn sống còn. Một đồng nghiệp đã nằm xuống. Một bạn cũ đang gắng sống để gặp lại bạn bè.
Bích, một người bạn khác, muốn gặp mặt nhau trước Noel. Tính ra chưa đầy một tháng. Sơn thoái thác vì từ đây đến đó không biết đi vững chãi chưa. Rồi hẹn lại hè năm sau tại nhà Khiêm. Gần nhà Sơn để nó khỏi phải đi xa, Huynh bảo thế. Tôi cũng biết cuộc sống sẽ còn nhiều bất ngờ, vì chẳng ai biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi thế, hẹn gặp nhau được lúc nào là quyết định ngay, để khỏi phải một lần trụy tim rồi ngã xuống vĩnh viễn, hoặc tai biến rồi chẳng bao giờ bước đi được nữa.
Có ai biết tuổi thọ của mình? Trong Kiều có câu, Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân, thoắt, gãy cành thiên hương, nói đến cái chết bất ngờ; bất đắc kỳ tử. Không phải chỉ cành thiên hương mới yểu mạng mà nam nhi chi chí vẫn thoắt, gãy gánh giữa đường là lẽ thường.
Ôi, tất cả đều vô thường. Chỉ còn tình bạn La San là vĩnh cửu.
Hà Ngân